Xuất phát từ sự tự chủ ý chí của con người, trong vụ án có đồng phạm, người đồng phạm có thể thực hiện những hành vi nhất định vượt quá giới hạn của đồng phạm. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, bài viết này sẽ làm sáng tỏ các vấn đề: khái niệm, đặc điểm của giới hạn của đồng phạm và mối quan hệ của nó với các nguyên tắc truy cứu trách nhiệm trong đồng phạm; khái niệm, đặc điểm của vượt quá giới hạn của đồng phạm; các dạng biểu hiện trên thực tế và hướng truy cứu trách nhiệm hình sự phù hợp.
Vấn đề xác định trách nhiệm hình sự (TNHS) trong vụ án có đồng phạm vẫn còn nhiều vấn đề cần bàn luận. Trong vụ án có đồng phạm, ở một số trường hợp, tuy những người đồng phạm đã “cố ý cùng thực hiện một tội phạm”, nhưng trên cơ sở sự tự chủ hành vi của mỗi cá nhân, người đồng phạm lại thực hiện những hành vi nằm ngoài sự thống nhất, không “cùng” trong hành vi đã xác định, định hướng với những người đồng phạm khác. Từ đó, người đồng phạm này đã “vượt quá giới hạn của đồng phạm”
Như vậy, “giới hạn của đồng phạm” được xác định dựa trên cơ sở nào? Khi nào được coi là thực hiện hành vi “vượt quá giới hạn của đồng phạm” và vấn đề TNHS của những người đồng phạm trong trường hợp vượt quá này được xác định như nào? Qua bài viết, nhóm tác giả sẽ làm sáng rõ các vấn đề trên.
- Giới hạn của đồng phạm trong vụ án có đồng phạm
1.1. Khái niệm và đặc điểm
Theo quy định tại Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”[1]. Theo đó, để được coi là đồng phạm, thì hành vi phạm tội của những người phạm tội cần bảo đảm những điều kiện nhất định ở mặt khách quan và mặt chủ quan của hành vi phạm tội.
Ở mặt khách quan, đồng phạm xảy ra khi có từ hai người trở lên cùng thực hiện một tội phạm. Cụ thể như sau:
Một là, về số lượng người phạm tội trong vụ đồng phạm. Trong vụ đồng phạm yêu cầu ít nhất có từ hai người phạm tội trở lên.
Hai là, những người phạm tội “cùng thực hiện một tội phạm”. Trong vụ án có đồng phạm, những người có năng lực TNHS phải cùng nhau thực hiện một hành vi mà BLHS quy định là tội phạm. Dấu hiệu “cùng nhau” thể hiện ở việc những người phạm tội đều tham gia vào quá trình thực hiện hành vi phạm tội.
Ở mặt chủ quan, đồng phạm xảy ra khi những người phạm tội “cùng cố ý” thực hiện hành vi phạm tội và trong một số trường hợp có cùng mục đích khi thực hiện hành vi.
Về dấu hiệu “cùng cố ý” thực hiện hành vi phạm tội được xác định dựa trên các phương diện sau:
Một là, những người đồng phạm có cùng lý trí khi thực hiện hành vi phạm tội chung. Lý trí là sự nhận thức của người phạm tội đối với hành vi mà mình thực hiện. Khi thực hiện hành vi đồng phạm, những người đồng phạm nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm, nhận thức được hành vi của mình có thể hoặc tất yếu gây ra hậu quả nhất định. Ngoài việc nhận thức về hành vi của mình, do đồng phạm là hành vi chung của nhiều người nên người đồng phạm còn nhận thức được hành vi của những người khác cũng nguy hiểm, cũng có thể hoặc tất yếu gây ra hậu quả nhất định. Qua đó, những người đồng phạm có nhận thức chung về hành vi nguy hiểm mà mình cùng nhau thực hiện.
Hai là, những người đồng phạm có cùng ý chí khi thực hiện hành vi phạm tội chung. Ý chí được hiểu là mong muốn, sự lựa chọn một cách tự chủ của người phạm tội khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Khi thực hiện hành vi đồng phạm người phạm tội mong muốn thực hiện hành vi của mình, và mong muốn hay có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Cùng với đó, những người đồng phạm còn mong muốn thực hiện hành vi chung với những người đồng phạm khác, mong muốn những người đồng phạm khác thực hiện hành vi cùng mình và cùng mong muốn hay bỏ mặc hậu quả chung của hành vi phạm tội.
Từ những phân tích trên, để bảo đảm được dấu hiệu “cùng cố ý” thực hiện hành vi phạm tội, thì những người đồng phạm có sự thống nhất về mặt nhận thức và mong muốn của mình đối với tội phạm mà họ cùng nhau thực hiện.
Về dấu hiệu những người đồng phạm có cùng mục đích. Đây là dấu hiệu không bắt buộc phải có trong mọi trường hợp đồng phạm, mà chỉ là dấu hiệu đối với đồng phạm về tội danh nào mà theo quy định của BLHS, dấu hiệu mục đích là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Ngoài ra, đối với những tội danh có dấu hiệu mục đích là tình tiết định khung tăng nặng, hay những trường hợp dấu hiệu mục đích là tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, thì những người đồng phạm cũng phải có cùng mục đích này thì mới cùng nhau chịu trách nhiệm về tình tiết đó. Trong một số trường hợp, dù không có chung mục đích với những người đồng phạm khác, nhưng có sự nhận thức rõ ràng về mục đích đó, những người đồng phạm biết rõ về mục đích của nhau mà vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội cùng nhau thì được xác định những người đồng phạm đã tiếp nhận mục đích của nhau.
Qua phân tích những dấu hiệu của đồng phạm, ta có thể thấy, về mặt khách quan, những người đồng phạm phải cùng nhau góp sức để thực hiện những hành vi nhất định, từ đó tạo nên hành vi phạm tội chung. Đồng thời, trong ý thức chủ quan của những người đồng phạm, những người đồng phạm thống nhất về nhận thức, mong muốn hay cùng có ý thức bỏ mặc đối với hành vi và hậu quả của hành vi phạm tội, cũng như thống nhất rong mục đích của hành vi.
Từ đó, sự thống nhất trong ý thức chủ quan của đồng phạm là tiền đề, là cơ sở để những người đồng phạm “cùng thực hiện một tội phạm” ở thế giới khách quan. Những người đồng phạm phải có sự thống nhất về nhận thức đối với hành vi và hậu quả của hành vi; thống nhất về mong muốn đối với hành vi và hậu quả của hành vi hoặc thống nhất về việc cùng bỏ mặc hậu quả xảy ra; thống nhất về mục đích phạm tội thì mới có việc cùng thực hiện một hành vi phạm tội trên thực tế. Sự thống nhất đó phản ánh giới hạn của đồng phạm.
Ta có định nghĩa giới hạn của đồng phạm như sau: Giới hạn của đồng phạm là những thống nhất trong ý thức chủ quan của người đồng phạm khi họ cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội.
Theo định nghĩa được đưa ra, giới hạn của đồng phạm có đặc điểm sau:
Thứ nhất, là sự thống nhất trong ý thức chủ quan của những người đồng phạm.
Đồng phạm là trường hợp những người phạm tội cùng cố ý thực hiện một tội phạm. Trong ý thức chủ quan, những người đồng phạm thống nhất được về lý trí và ý chí đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ thực hiện. Trong vụ đồng phạm, người phạm tội cần xác định được hành vi của mình thực hiện là hành vi gì? Mức độ, cường độ, tính chất của hành vi ra sao? Hành vi có thể gây ra hậu quả như thế nào? Mong muốn hay bỏ mặc hậu quả xảy ra? Những vấn đề đó phải được những người đồng phạm nhận thức và thống nhất với nhau khi thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài ra, trong trường hợp dấu hiệu mục đích làm căn cứ truy cứu TNHS thì những người đồng phạm còn phải thống nhất cả về mục đích khi thực hiện hành vi phạm tội. Từ những đòi hỏi về sự thống nhất trong lý trí, ý chí hay mục đích của những người đồng phạm đã hình thành nên sự thống nhất trong ý thức chủ quan của những người đồng phạm. Sự thống nhất trên tạo nên sự giới hạn của đồng phạm trong ý thức chủ quan của những người đồng phạm đối với hành vi phạm tội.
Trên thực tế, có trường hợp, người đồng phạm để đạt được mục đích, mong muốn chung của những người đồng phạm, nên cần thực hiện những hành vi nhất định. Hành vi đó có hành vi đã được thống nhất trước, có hành vi được phát sinh ngay tại thời điểm sự việc phạm tội diễn ra. Trong trường hợp này, ta cần xác định rõ hành vi của người đồng phạm có nằm trong sự thống nhất với những người đồng phạm khác hay không? Cụ thể, nếu người đồng phạm có những hành vi phát sinh nhưng những người đồng phạm khác nhận thức được và không có ý kiến phản đối đối với hành vi đó, thì trường hợp này cần xác định rằng, những người đồng phạm đã có sự thống nhất “ngay tức khắc” đối với những hành vi phát sinh, đã thực hiện một hành vi đồng phạm không thông mưu trước. Những người đồng phạm nhận thức được hành vi đang diễn ra, nhận thức được hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra nhưng để đạt được mục đích, mong muốn ban đầu nên chấp nhận việc người đồng phạm khác thực hiện hành vi đó. Từ đó, sự chấp nhận vẫn tạo nên sự thống nhất trong ý thức chủ quản của những người đồng phạm. Ngược lại, nếu những người đồng phạm khác nhận thức được hành vi nhưng có thái độ không đồng ý, có hành vi ngăn cản hành vi đó hay không nhận thức được hành vi đó thì hành vi phát sinh mà người đồng phạm thực hiện đã vượt quá sự thống nhất với những người đồng phạm khác, không đạt được sự thống nhất trong ý thức chủ quan với những người đồng phạm đối với hành vi phát sinh.
Như vậy, sự thống nhất trong ý thức chủ quan là cơ sở tạo nên giới hạn của đồng phạm.
Thứ hai, đặt ra giới hạn trong việc thực hiện hành vi phạm tội của những người đồng phạm.
Bằng những điều đã thống nhất trong ý thức chủ quan, những người đồng phạm thống nhất cùng thực hiện một tội phạm ra bên ngoài thế giới khách quan. Những người đồng phạm cùng nhau thực hiện một tội phạm là sự phản ánh ra bên ngoài thế giới khách quan của sự thống nhất mà họ đã xác lập trong ý thức chủ quan. Những người đồng phạm thống nhất nhận thức về việc thực hiện hành vi, hậu quả của hành vi như nào, mong muốn thực hiện hành vi ra sao, mong muốn hay chấp nhận hậu quả thế nào thì hành vi mà họ thực hiện trong đồng phạm sẽ diễn ra và được xác định để hướng tới những điều đó. Từ đó, những hành vi, hậu quả, mục đích đã được thống nhất sẽ là cơ sở để những người đồng phạm thực hiện hành vi phạm tội ra thế giới khách quan. Nói cách khác, hành vi của người đồng phạm nằm trong phạm vi của sự thống nhất, tức là họ đang cùng thực hiện tội phạm, còn hành vi không nằm trong sự thống nhất của ý thức chủ quan tức là họ đang không cùng thực hiện hành vi với những người khác. Như vậy, sự thống nhất trong ý thức chủ quan của đồng phạm là giới hạn đối với hành vi của những người đồng phạm. .
1.2. Giới hạn của đồng phạm trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự với vụ án có đồng phạm
Khi xem xét TNHS của những người đồng phạm trong một vụ án có đồng phạm, cần phải tuân thủ những nguyên tắc đặc thù nhất định. Theo khoa học luật hình sự Việt Nam, các nguyên tắc đó là: nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm, nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện vụ đồng phạm và nguyên tắc cá thể hóa TNHS của những người đồng phạm. Xem xét trong mối quan hệ giữa các nguyên tắc xác định TNHS của những người đồng phạm với giới hạn của đồng phạm, ta thấy có những mối quan hệ nhất định.
Thứ nhất, với nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm. Nội dung của nguyên tắc thể hiện rằng, hành vi đồng phạm là hành vi đóng góp công sức chung của những người đồng phạm đối với việc thực hiện một tội phạm. Tội phạm mà những người đồng phạm thực hiện cùng nhau là một thể thống nhất, không thể tách rời riêng lẻ với hành vi của từng người phạm tội. Xem xét điều đó trong giới hạn của đồng phạm thì những người đồng phạm thực hiện hành vi phạm tội trong khuôn khổ những điều đã được thống nhất trong ý thức chủ quan, để cùng nhau thực hiện một hành vi phạm tội chung. Từ đó, nếu người đồng phạm thực hiện những hành vi nằm trong khuôn khổ của đồng phạm thì họ cùng nhau “bị truy tố, xét xử về cùng tội danh, theo cùng điều luật và trong phạm vi chế tài điều luật ấy quy định”. Như vậy, trong mối quan hệ với nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm, thì giới hạn của đồng phạm yêu cầu người đồng phạm phải chịu TNHS cùng nhau về hành vi mà họ cùng nhau thực hiện trong khuôn khổ giới hạn của đồng phạm.
Thứ hai, với nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện vụ đồng phạm. Nội dung của nguyên tắc thể hiện rằng, hành vi phạm tội là hành vi do từng cá nhân thực hiện, từ đó, việc truy cứu TNHS với mỗi cá nhân cũng cần dựa trên hành vi thực tế của từng cá nhân đã thực hiện trong vụ đồng phạm. Xét trong giới hạn của đồng phạm, giới hạn là sự thống nhất trong ý thức chủ quan của những người đồng phạm. Tuy nhiên, việc thực hiện hành vi của người đồng phạm trên thực tế có thể không tuân theo, không nằm trong sự thống nhất đó bởi hành vi là sự tự ý chí, tự thực hiện của mỗi cá nhân. Từ đó, việc thực hiện hành vi không nằm trong khuôn khổ thống nhất với những người đồng phạm, không nằm trong giới hạn của đồng phạm thì mỗi người đồng phạm phải chịu trách nhiệm đối với hành vi đó của mình. Như vậy, trong mối quan hệ với nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện vụ đồng phạm, thì giới hạn của đồng phạm đặt ra vấn đề mỗi người đồng phạm không phải chịu TNHS đối với hành vi không nằm trong sự thống nhất của đồng phạm của những người đồng phạm khác.
- Trách nhiệm hình sự trong trường hợp vượt quá giới hạn của đồng phạm
2.1. Vấn đề vượt quá giới hạn của đồng phạm
Như đã phân tích, giới hạn của đồng phạm xuất phát và có nguồn gốc từ việc những người đồng phạm “cùng cố ý” thực hiện một tội phạm. Những người đồng phạm thống nhất về lý trí, ý chí đối với hành vi và hậu quả của tội phạm, qua đó tạo nên việc những người phạm tội cùng cố ý thực hiện một hành vi phạm tội. Từ đó đã đặt ra giới hạn của đồng phạm mà nếu người đồng phạm thực hiện một hành vi vượt ra khỏi sự “cùng cố ý” đó thì sẽ vượt quá giới hạn của đồng phạm. Như vậy, dựa trên khái niệm, đặc điểm về giới hạn của đồng phạm, ta có định nghĩa vượt quá giới hạn của đồng phạm như sau: “Vượt quá giới hạn của đồng phạm là trường hợp người đồng phạm thực hiện hành vi vượt khỏi sự thống nhất trong ý thức chủ quan của những người đồng phạm”.
Từ định nghĩa trên, trường hợp vượt quá giới hạn của đồng phạm có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, là hành vi vượt khỏi sự thống nhất trong ý thức chủ quan của những người đồng phạm
Giới hạn của đồng phạm là sự thống nhất trong ý thức chủ quan của những người đồng phạm. Trên cơ sở đó, người đồng phạm thực hiện hành vi vượt quá giới hạn của đồng phạm tức là đã thực hiện những hành vi không nằm trong sự thống nhất với những người đồng phạm khác. Hiểu theo cách khác, đó là, người đồng phạm thực hiện hành vi vượt quá giới hạn của đồng phạm là thực hiện hành vi mà những người đồng phạm khác không nhận thức được, từ đó không mong muốn thực hiện hành vi đó. Với hậu quả hành vi gây ra, những người đồng phạm khác cũng không nhận thức được, không mong muốn hay không có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Những hành vi và hậu quả của hành vi mà người đồng phạm có hành vi vượt quá không nằm trong những điều mà những người đồng phạm có nhận thức chung, mong muốn thực hiện chung.
Thứ hai, hành vi vượt quá giới hạn của đồng phạm được người đồng phạm thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý.
Đồng phạm là hành vi cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Từ đó, hành vi đồng phạm phải được thực hiện với lỗi cố ý và chỉ có hành vi được thực hiện với lỗi cố ý mới có thể xảy ra trường hợp đồng phạm. Như vậy, trong trường hợp khi thực hiện hành vi đồng phạm thì người phạm tội lại thực hiện một hành vi với lỗi vô ý, thì hành vi với lỗi vô ý đó là hành vi vượt quá giới hạn của đồng phạm. Hành vi được thực hiện với lỗi vô ý là hành vi mà những người đồng phạm khác không nhận thức được, từ đó không hình thành sự nhận thức chung, mong muốn chung đối với hành vi và hậu quả của hành vi đó gây ra.
Tuy nhiên, trường hợp này cần phân biệt với trường hợp hỗn hợp lỗi. Hỗn hợp lỗi được hiểu là trường hợp một hành vi được thực hiện với lỗi cố ý, nhưng trong quá trình thực hiện hành vi lại vô ý gây ra một hậu quả nhất định. Tức là, trường hợp này được hiểu là người phạm tội cố ý với hành vi và vô ý đối với hậu quả hành vi gây ra. Xét trong đồng phạm, những người đồng phạm cùng cố ý thực hiện hành vi phạm tội, cùng nhau thực hiện một hành vi với lỗi cố ý. Trong trường hợp hành vi đó gây ra những hậu quả nhất định với lỗi vô ý thì đó là sự vô ý đối với hậu quả của tất cả những người đồng phạm. Một người đồng phạm thực hiện một hành vi cố ý trong sự thống nhất với những người đồng phạm khác, nhưng lại gây ra một hậu quả mà không lường trước được, hoặc có lường trước được nhưng cùng nhau cho rằng nó không thể xảy ra hay có thể ngăn ngừa được, thì được xác định là sự vô ý của tất cả những người đồng phạm đối với hậu quả thực tế xảy ra.
Trong quá trình thực hiện hành vi đồng phạm, người phạm tội cũng có thể thực hiện một hành vi khác ngoài hành vi đồng phạm với lỗi cố ý. Trong trường hợp này, người đồng phạm đó nhận thức về một hành vi khác, hậu quả khác mà những người đồng phạm khác không nhận thức được. Từ đó, những người đồng phạm khác không mong muốn thực hiện cùng nhau hành vi đó, không cùng mong muốn hay chấp nhận hậu quả của hành vi đó xảy ra. Lúc này, hành vi mà người đồng phạm cố tình thực hiện đó không nằm trong sự thống nhất với những người đồng phạm khác nên vượt quá giới hạn của đồng phạm.
Như vậy, hành vi vượt quá giới hạn của đồng phạm có thể được thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý. Còn trường hợp những người đồng phạm thực hiện hành vi cố ý trong giới hạn của đồng phạm mà gây ra những hậu quả với lỗi vô ý, thì hậu quả đó vẫn nằm trong giới hạn của đồng phạm, là sự vô ý chung của tất cả những người đồng phạm.
Thứ ba, hành vi vượt quá giới hạn của đồng phạm có thể do bất kì người đồng phạm nào thực hiện.
Hành vi đồng phạm do nhiều người cùng thực hiện với nhau. Mỗi người đồng phạm đều sẽ phải thực hiện một hành vi nhất định, góp sức vào việc hình thành và thực hiện hành vi phạm tội chung. Tuy nhiên, hành vi của mỗi người đều do sự tự chủ ý chí của họ quyết định. Trong quá trình thực hiện hành vi chung, dựa trên sự tự chủ ý chí của mỗi cá nhân mà bất kì người đồng phạm nào, với vai trò gì đều có thể thực hiện những hành vi nhất định không nằm trong sự thống nhất với những người đồng phạm khác. Điều này cũng là cơ sở để hình thành nguyên tắc “chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện vụ đồng phạm” trong việc xác định TNHS của từng người đồng phạm đối với hành vi do chính họ thực hiện.
2.2. Các dạng vượt quá giới hạn của đồng phạm
Thứ nhất, vượt quá về tính chất, mức độ của hành vi.
Một là, vượt quá về mức độ của hành vi.
Đây là trường hợp người đồng phạm cố ý thực hiện một hành vi có mức độ nguy hiểm hơn so với hành vi được thống nhất giữa những người đồng phạm. Mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội phản ánh mức nguy hiểm trên một thang độ nguy hiểm cụ thể, phản ánh mức thang gây thiệt hại hay đe dọa gây thiệt hại của hành vi phạm tội. Trong trường hợp này, người đồng phạm thực hiện hành vi đã thống nhất nhưng cố ý hướng tới gây ra một hậu quả lớn hơn hậu quả đã thống nhất trước. Mức độ gây ra hậu quả của hành vi không nằm trong sự thống nhất với những người đồng phạm khác. Cụ thể, những người đồng phạm không nhận thức được mức độ hậu quả đó sẽ xảy ra, từ đó không mong muốn hay có ý thức bỏ mặc cho hậu quả đó xảy ra. Trường hợp này, cần truy cứu TNHS đối với người đồng phạm có mức độ hành vi vượt quá theo hướng người này phạm tội đã thống nhất ban đầu, nhưng có thêm tình tiết tăng nặng định khung hoặc tình tiết tăng nặng TNHS nếu thỏa mãn ứng với phần mức độ vượt quá của hành vi mà họ thực hiện.
Ví dụ: Do cần tiền tiêu xài nên A rủ B đi trộm cắp xe máy. Đến nhà ông C, thấy cửa khép hờ và không có ai ở nhà, A bảo B đứng ngoài cảnh giới còn A vào nhà lấy xe máy. Thấy chiếc điện thoại ở trên bàn, A bỏ luôn vào túi rồi dắt chiếc xe máy ra. A cùng B mang chiếc xe máy đi bán được 20.000.000 đồng, A chia cho B 5.000.000 đồng. Sau đó, A đi bán chiếc điện thoại được 15.000.000 đồng. Theo kết luận định giá tài sản, chiếc xe máy có giá 45.000.000 đồng, chiếc điện thoại có giá 20.000.000 đồng.
Trong trường hợp này, cần xác định B phạm tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015, A phạm tội trộm cắp tài sản theo điểm c khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015. A và B đã thống nhất về đối tượng tác động của tội phạm, thống nhất tài sản mà mình muốn trộm cắp là chiếc xe máy. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hành vi, A còn trộm thêm chiếc điện thoại. Với chiếc điện thoại này, B không nhận thức được hành vi đó xảy ra, không nhận thức được phần hậu quả đối với chiếc điện thoại nên không có cùng mong muốn chiếm đoạt được chiếc điện thoại đó. Từ đó, chiếc điện thoại mà A chiếm đoạt được không nằm trong giới hạn chủ quan mà A và B đã xác lập, nên việc chiếm đoạt chiếc điện thoại của A là hành vi vượt quá giới hạn của đồng phạm. Hành vi phát sinh của A tuy không cấu thành tội mới nhưng tổng trị giá tài sản mà A đã chiếm đoạt là 65.000.000 đồng nên hành vi phạm tội của A thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015.
Hai là, vượt quá về tính chất của hành vi.
Đây là trường hợp người đồng phạm cố ý thực hiện một hành vi có tính chất nguy hiểm hơn so với hành vi được thống nhất giữa những người đồng phạm. Tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội phản ánh đặc điểm, sự nguy hiểm riêng biệt của hành vi để phân biệt với sự nguy hiểm của hành vi phạm tội khác. Trong trường hợp này, người đồng phạm trong quá trình thực hiện hành vi cố ý thực hiện hành vi có tính chất khác với hành vi đã thống nhất. Những người đồng phạm khác không nhận thức được hành vi đó xảy ra, không nhận thức được hậu quả của hành vi, đồng thời không mong muốn hay không có ý thức bỏ mặc cho hậu quả nguy hiểm của hành vi đó xảy ra. Qua đó, hành vi có tính chất nguy hiểm hơn nằm ngoài sự cùng nhận thức và cùng mong muốn hay bỏ mặc của những người đồng phạm khác.
Về hậu quả pháp lý, những người đồng phạm khác vẫn chịu TNHS về tội danh thống nhất ban đầu, người có hành vi vượt quá sẽ bị truy cứu về tội nặng hơn, khung hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng TNHS tương ứng với tính chất nguy hiểm của hành vi.
Ví dụ: Do anh B chửi A trên mạng xã hội nên A rủ C, D đến đánh anh B. C vào nhà lấy một con dao bấm bỏ vào túi quần rồi cùng A, D đến nhà anh B. Đến nơi, A lên tiếng thách thức, anh B chửi lại A nên A cùng C, D lao vào đấm, đá vào người anh B. Khi đang đánh anh B, C lấy con dao bấm trong túi ra đâm 01 nhát vào bụng anh B làm anh B gục xuống. Thấy vậy, A và D ngăn C dừng lại bảo “đánh nó thôi, ai bảo mày đâm nó, nó chết bây giờ” và cùng nhau bỏ về. Theo kết luận giám định, tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh B là 33%.
Trường hợp này, cần xác định A và D phạm tội cố ý gây thương tích theo khoản 2 Điều 134 BLHS năm 2015, C phạm tội giết người theo khoản 2 Điều 123 BLHS năm 2015 nhưng thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. A và D đồng phạm về tội cố ý gây thương tích bởi cả ba đối tượng cùng nhau thống nhất có hành vi tấn công và đánh nạn nhân. Và trên thực tế, việc gây ra thương tích cho nạn nhân nằm trong sự thống nhất của những người đồng phạm khi bàn bạc, rủ nhau tấn công nạn nhân.
Với C, hành vi dùng con dao bấm là hung khí nguy hiểm tấn công vào bụng là vùng trọng yếu trên cơ thể anh B là hành vi vượt quá của C do từ đầu A, C và D chỉ thống nhất với nhau về việc đánh gây thương tích cho anh B. Việc C dùng dao tấn công A và D không biết, không nhận thức được, và khi nó xảy ra, A và D đã phản đối, không thống nhất thực hiện hành vi với C bằng cách đã ngăn cản C thực hiện hành vi đó. Khi thực hiện hành vi, C nhận thức rõ hành vi dùng dao đâm vào bụng anh B của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó là anh B có thể chết nhưng vẫn thực hiện, thể hiện C mong muốn hậu quả xảy ra, việc anh B không chết là nằm ngoài ý chí chủ quan của C. Hành vi nêu trên của C đã cấu thành tội giết người, nhưng thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt do anh B chưa chết.
Tuy nhiên, với tội danh ban đầu mà những người đồng phạm khác bị truy cứu cần lưu ý, nếu hậu quả của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc nhưng với hành vi thống nhất ban đầu hậu quả chưa xảy ra, hậu quả xảy ra là do hành vi vượt quá gây ra thì họ sẽ bị truy cứu TNHS về giai đoạn phạm tội chưa đạt của tội phạm đó. Ví dụ như, ban đầu thống nhất thực hiện hành vi lừa đảo 20.000.000 đồng nhưng nạn nhân không tin để giao tài sản nên một trong số những người đồng phạm đã có hành vi tấn công dùng vũ lực để chiếm đoạt, và từ đó có được tài sản đó. Hành vi nằm ngoài sự thống nhất với những người đồng phạm khác. Với trường hợp này, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà những người đồng phạm dự định thực hiện chưa hoàn thành do nạn nhân chưa tự nguyện giao tài sản, mà việc có được tài sản là do hành vi vượt quá – dùng vũ lực chiếm đoạt (cướp tài sản) thực hiện. Những người đồng phạm khác bị truy cứu TNHS về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt, còn người có hành vi vượt quá chịu trách nhiệm riêng về hành vi vượt quá của mình.
Thứ hai, vượt quá về số lượng hành vi phạm tội.
Đây là trường hợp ngoài hành vi được thống nhất giữa những người đồng phạm (tội ban đầu), người đồng phạm còn cố ý thực hiện một (hoặc nhiều) hành vi khác mà hành vi đó cấu thành một (hoặc nhiều) tội độc lập khác. Những người đồng phạm khác không nhận thức được hành vi phát sinh, hoặc có nhận thức được nhưng không đồng ý cùng thực hiện, không thống nhất “ngay tức khắc” với nhau. Hành vi phát sinh là hành vi cá nhân của người đồng phạm mà không nằm trong kế hoạch cùng thực hiện với những người đồng phạm khác. Trong trường hợp này, những người đồng phạm khác bị truy cứu TNHS về hành vi đã thống nhất thực hiện ban đầu. Còn đối với người đồng phạm có hành vi vượt quá, ngoài bị truy cứu đồng phạm về hành vi đã thống ban đầu, còn bị truy cứu TNHS đối với hành vi phạm tội mà mình đã thực hiện thêm đó.
Ví dụ: Do B chửi A trên mạng xã hội nên A rủ C, D đến đánh B. Đến nơi, A lên tiếng thách thức, B chửi lại A nên A cùng C, D lao vào đấm, đá vào người B. Khi đang đánh B, D ra lấy chiếc điện thoại của B để ở gần đó ném mạnh xuống đất làm chiếc điện thoại bị hư hỏng nặng, không thể sử dụng được. Khi thấy anh B bất tỉnh, A, C và D dừng lại và bỏ về. Theo kết luận giám định, tỷ lệ tổn thương cơ thể của B là 12%. Theo kết luận định giá tài sản, chiếc điện thoại có giá 20.000.000 đồng.
Trong trường hợp này, A, C và D phạm tội cố ý gây thương tích theo khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015, ngoài ra, D còn phạm tội cố ý làm hư hỏng tài sản theo khoản 1 Điều 178 BLHS năm 2015. Hành vi cố ý làm hư hỏng chiếc điện thoại của anh B là hành vi vượt quá của D do từ đầu A, C và D chỉ thống nhất với nhau về việc đánh gây thương tích cho anh B. Hành vi nêu trên của D đã cấu thành tội độc lập là tội cố ý làm hư hỏng tài sản.
Thứ ba, vượt quá cả về tính chất, mức độ của hành vi và số lượng của tội phạm.
Trường hợp này là trường hợp đặc biệt khi trong quá trình thực hiện hành vi của mình, người đồng phạm đã thực hiện hành vi vượt quá sự thống nhất với những người đồng phạm khác cả về tính chất, mức độ và số lượng hành vi. Đây là trường hợp người đồng phạm cố ý thực hiện một hành vi có tính chất hoặc mức độ nguy hiểm hơn so với hành vi được thống nhất giữa những người đồng phạm, mà hành vi này có thể vẫn cấu thành tội ban đầu hoặc tội nặng hơn tội ban đầu mà những người đồng phạm sẽ thực hiện, ngoài ra người này còn cố ý thực hiện một (hoặc nhiều) hành vi khác mà (các) hành vi này cấu thành một (hoặc nhiều) tội độc lập khác. Trường hợp này cần kết hợp hậu quả pháp lý của các trường hợp vượt quá giới hạn của đồng phạm để truy cứu TNHS đối với người đồng phạm có hành vi vượt quá theo hướng người này phạm đồng thời tội ban đầu có tình tiết tăng nặng định khung hay tình tiết tăng nặng TNHS (hoặc tội nặng hơn tội ban đầu) và (các) tội độc lập khác với sự vượt quá về số lượng hành vi. Còn TNHS của những người đồng phạm khác cũng được truy cứu tương ứng với từng trường hợp cụ thể.
Ví dụ: Do cần tiền tiêu xài nên A rủ B đi trộm cắp tài sản. Đi qua nhà chị C, thấy cửa không khóa, A bảo B đứng ngoài cảnh giới còn A lẻn vào nhà. Khi A đang lục tìm tài sản có giá trị trong tủ gần giường ở phòng ngủ, chị C đi từ phòng tắm ra thấy A định hét lên thì A lao đến đè chị C xuống, và dùng tay bóp chặt miệng và mũi của chị C. Chị C giãy giụa một lúc rồi bất động. Sau đó, A tháo toàn bộ trang sức và chiếc đồng hồ trên người chị C rồi ra ngoài tẩu thoát cùng B. Theo kết luận giám định, nguyên nhân tử vong của chị C là do ngạt thở. Theo kết luận định giá tài sản, số trang sức và chiếc đồng hồ của chị C có trị giá tổng cộng là 50.000.000 đồng.
Trong trường hợp này, B phạm tội trộm cắp tài sản theo khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015, A phạm tội giết người theo điểm g khoản 1 Điều 123 BLHS năm 2015 và tội cướp tài sản theo khoản 2 Điều 168 BLHS năm 2015. Hành vi dùng tay chặn đường thở của chị C để chiếm đoạt tài sản là hành vi vượt quá của A do từ đầu A và B chỉ thống nhất với nhau về việc trộm cắp tài sản của chị C. Hành vi nêu trên của A đã cấu thành tội cướp tài sản và tội độc lập là tội giết người. Hành vi dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản (cướp tài sản) là sự vượt quá về tính chất nguy hiểm của hành vi so với hành vi trộm cắp tài sản. Hành vi tước đoạt tính mạng của người khác trái pháp luật (giết người) là hành vi tăng thêm so với hành chiếm đoạt tài sản thống nhất ban đầu.
Kết luận
Giới hạn của đồng phạm và trường hợp vượt quá giới hạn của đồng phạm trong truy cứu TNHS với vụ án có đồng phạm là vấn đề phức tạp, còn tồn tại nhiều vướng mắc. Với những lý luận đưa ra về giới hạn của đồng phạm, vượt quá giới hạn của đồng phạm và các trường hợp vượt quá giới hạn của đồng phạm, nhóm tác giả hy vọng sẽ tháo gỡ được một số vướng mắc nhất định trong việc truy cứu TNHS đối với các vụ án có đồng phạm trên thực tế, góp phần vào công cuộc đấu tranh và phòng chống tội phạm đang được Đảng và Nhà nước triển khai mạnh mẽ.
Tác giả: Lê Duy Định và Vũ Mạnh Tuấn
Bài viết đã được đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 22 (kỳ II tháng 11/2025)


